Tìm kiếm mục từ trong bộ từ điển bách khoa (4 tập)
Từ khóa
Chuyên ngành
Địa lý
Giải nghĩa
HÀ NỘI

1. (địa lí; sử), thủ đô của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học và kĩ thuật của cả nước. Diện tích 900,5 km2. Gồm 7 quận (Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Đống Đa, Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy), 5 huyện (Đông Anh, Gia Lâm, Từ Liêm, Thanh Trì, Sóc Sơn). Dân số 2.711.500 (1999).

Nội thành HN nằm ở bờ phải sông Hồng, trên bãi bồi của nó. Có đê là địa hình nhân tạo cao. Trầm tích Đệ tứ ở Hà Nội dày 80 - 90 m, gồm chủ yếu bột, sét, ở dưới sâu có những lớp cuội sỏi chứa nước tốt. Từ ngã ba Trung Hà trở về, sông Hồng đã là một con sông đồng bằng chảy uốn khúc và có nhiều hồ sót. Những hồ này có khá nhiều ở HN, điển hình là Hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, hồ Bảy Mẫu. Nhiều hồ đã bị lấp để xây dựng nhà cửa, như hồ Mã Canh ở khu vực phố Phạm Hồng Thái, Nguyễn Trường Tộ; hồ Thái Cực ở phố Hàng Đào, Gia Ngư. Phía thượng lưu HN, sông Hồng có các phân lưu: sông Đáy, sông Nhuệ, sông Đuống. Sông Tô Lịch bắt nguồn từ Hồ Tây chạy ngay giữa HN. Kinh tế: có nhiều xí nghiệp công nghiệp trung ương và địa phương, thuộc các ngành cơ khí, điện, điện tử, thực phẩm, dệt, da, may mặc, vv. Nông nghiệp ở ngoại thành: lúa, cây lương thực (ngô, khoai tây, khoai lang), rau màu, thuốc lá, hoa, cây cảnh; chăn nuôi: bò, trâu, lợn, gia cầm.

Đầu mối các tuyến đường sắt đi các tỉnh Lạng Sơn, Lào Cai, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh. Các quốc lộ 1A, 5, 6, vv. Ba cầu lớn qua sông Hồng: Long Biên, Thăng Long, Chương Dương. Hai sân bay: sân bay quốc tế Nội Bài, Gia Lâm. Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh, Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, nhiều trường đại học, 7 bảo tàng quốc gia và các bảo tàng khác, Nhà Hát Lớn, các nhà văn hoá, Văn Miếu Quốc Tử Giám.

HN là một trong những thủ đô có bề dày lịch sử so với nhiều thủ đô khác trên thế giới. Từ thế kỉ 3 - 2 tCn., Cổ Loa trên đất HN đã là đô thành của nước Âu Lạc. Giữa thế kỉ 5, vùng HN là một đơn vị quận, huyện với tên gọi Tống Bình. Khoảng năm 544 - 546, là đại bản doanh của nhà Tiền Lý (Lý Nam Đế). Năm 679, nhà Đường (Trung Quốc) lập An Nam đô hộ phủ, chia thành 12 châu (Bắc Bộ đến Trung Bộ), Tống Bình được chọn là lị sở. Vùng trung tâm HN trở thành trung tâm đất nước là từ đó. Năm 767, Trương Bá Nghi cho đắp Đại La thành và đến 866, Cao Biền mở rộng tới 6 km bao quanh Tống Bình. Với vị trí địa lí là một vùng đất ở "chính trung" (đúng vào nơi trung tâm), lại có thế "rồng cuộn hổ ngồi" để có thể từ đó "tựa vào núi mà nhìn ra sông", nên vào năm 1010, HN đã chính thức trở thành kinh đô của Đại Việt. Có một huyền tích xung quanh việc định đô này. Khi đoàn thuyền của vua Lý Thái Tổ (974-1028) từ Hoa Lư tới thành Đại La thì xuất hiện Rồng Vàng bên thuyền Ngự và sau đó, bay vút lên. Vì thế, kinh đô mới được đặt gọi là Thăng Long (Rồng bay). Suốt những thế kỉ sau đó, mặc dù tên gọi có khác nhau, khi là Đông Đô (cuối thế kỉ 14), Đông Quan (đầu thế kỉ 15), hoặc là Đông Kinh (từ 1430) rồi phủ Trung Đô, Phụng Thiên (cuối thế kỉ 15), Kẻ Chợ (cuối thế kỉ 16),... nhưng Thăng Long vẫn là tiềm thức và là một dấu ấn đặc biệt về một cuộc thiên di vĩ đại nhất trong lịch sử chuyển dịch đế đô nước Việt Nam. Cho đến 1831, dưới triều vua Nguyễn (Minh Mạng), tên gọi HN (phía trong sông) mới xuất hiện nhưng để chỉ một đơn vị hành chính cấp tỉnh bao gồm vùng trung tâm HN, vùng Hà Đông và toàn bộ tỉnh Hà Nam ngày nay. Năm 1858, Pháp xâm lược Việt Nam. Sau Nam Bộ, HN là một trong những tỉnh thành có phong trào kháng Pháp sôi nổi nhất và là nơi thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam (3.1929). Ngày 2.9.1945, tại HN, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản "Tuyên ngôn độc lập", khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hiến pháp năm 1946 được thông qua ngày 9.11 tại cuộc họp của Quốc hội khoá I (lần 2) đã ghi: "thủ đô đặt ở Hà Nội". Với thắng lợi của cuộc Kháng chiến chống Pháp, Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, HN chính thức trở thành thủ đô của nước Việt Nam độc lập. Tiếp sau đó, cuộc Kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Việt Nam còn phải kéo dài tới 21 năm. Miền Nam hoàn toàn giải phóng vào năm 1975. Nước Việt Nam giành được độc lập và thống nhất trên toàn quốc. Ngày 25.4.1976, tại cuộc họp của Quốc hội khoá VI, HN tiếp tục vinh dự được chọn là thủ đô của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thống nhất.

Là vùng đất đế đô nên ngay từ buổi đầu khởi dựng và trong các giai đoạn tiếp theo, HN luôn là nơi hội tụ các bậc hiền tài, nguyên khí của đất nước. Đó là vua Lý Thái Tổ với công đầu đặt đô Thăng Long để "mưu toan việc lớn cho muôn đời con cháu mai sau" và những vị vua anh hùng Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông trong kháng chiến chống Mông - Nguyên, những danh tướng kiệt xuất như Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, những danh nhân văn hoá như Lê Văn Hưu, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn An, Phan Huy Chú, vv. Bước sang thời cận - hiện đại, đặc biệt từ sau khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930, những nét đẹp tinh hoa này đã có nhiều bước phát triển mới và vẫn là một trong những đặc trưng nổi bật của nền văn hoá, văn hiến HN. HN là thủ đô, là nơi chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp 1946 và là trung tâm đầu não của cuộc Kháng chiến chống Mĩ (1954 -75) thần kì của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới và nhiều thế hệ các nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng và Nhà nước đã sống và làm việc tại HN. Bên cạnh một HN "hiền tài" còn có một HN truyền thống của những phố nghề, làng nghề nổi tiếng. Đáng chú ý là các làng dệt ở Nghi Tàm, giấy ở Bưởi, Yên Thái; hoa cảnh ở ven Hồ Tây; đúc đồng ở Ngũ Xã; rượu sen ở Hoàng Mai, vv. Sự gia tăng sản xuất dẫn đến sự gia tăng trao đổi hàng hoá, thể hiện trong việc mở rộng mạng lưới chợ - phố, góp phần tạo nên những diện mạo mới cho phố phường của Thăng Long - Đông Kinh - Hà Nội. "Hà Nội băm sáu phố phường. Hàng Gạo, Hàng Đường, Hàng Muối trắng tinh" (Ca dao cổ). Phố là nơi bán hàng. Phường là tổ chức của những người cùng nghề và bắt đầu từ thế kỉ 15 còn là đơn vị hành chính cơ sở. Từ cuối thế kỉ 16 đến cuối thế kỉ 19, phố phường đã được xem như một trong những yếu tố quan trọng góp phần làm nên cảnh tấp nập, sầm uất của đất Thăng Long - Kẻ Chợ. Vào thời điểm này, HN đã trở thành một trung tâm chính trị - kinh tế lớn nhất trong cả nước và là một trong những thành thị lớn của vùng Đông Nam Á và phương Đông nói chung.

Là một vùng đất văn hoá, có chiều sâu văn hiến nên HN cũng là nơi lưu giữ nhiều loại hình di tích. Ngôi chùa cổ nhất ở HN là chùa Trấn Quốc, tương truyền có từ đời Lý Nam Đế (giữa thế kỉ 6), đền Bạch Mã (nay ở 76 phố Hàng Buồm) xuất hiện từ thế kỉ 9, đền Đồng Cổ (thế kỉ 11), chùa Quán Sứ (thế kỉ 15), đền Quán Thánh (thế kỉ 11, diện mạo hiện nay là do đợt sửa chữa năm 1893). Đặc biệt đáng chú ý là cụm kiến trúc chùa, toà đài xây giữa hồ vuông làm nên di tích chùa Một Cột nổi tiếng (thế kỉ 11), khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám với 82 bia tiến sĩ, khắc tên 1034 tiến sĩ (dựng từ thế kỉ 15), điện Kính Thiên thời Lê (dựng lại từ năm 1428; năm 1467, làm thêm hai lan can bằng đá chạm rồng ở thềm điện) trên núi Nùng. Cửa Đoan Môn là cửa chính cung thành thời Lê (thế kỉ 15), trấn thành Thăng Long (dựng đầu thế kỉ 19) và Cột cờ nằm trong quần thể trấn thành (cao 33,4 m, xây năm 1805). Ngoài ra, còn có Hồ Tây, Hồ Hoàn Kiếm,... nhiều huyền thoại và là những đặc trưng cảnh quan nổi tiếng của HN . Cũng dựa trên hình thế núi, sông và đặc biệt là hệ thống hồ này, nên HN còn được mệnh danh là "thành phố sông hồ".

 Kể từ khi định đô đến nay, HN đã trải ngót nghìn năm tuổi. HN là nơi kết tinh tinh hoa, hội tụ nhân tài, giao lưu bốn phương và toả sáng văn hiến. Đó là nền văn hoá kinh kì, có sắc thái riêng và từng bước được phát triển, nâng cao trong toàn bộ tiến trình chung của nền văn hoá dân tộc. Động lực văn hoá HN đã vận hành trên cơ sở đó và nó là cội gốc của mọi thành tựu văn hoá HN hôm nay. Trong những năm đổi mới, cùng với quá trình phát triển chung cuả đất nước, HN đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Ngày 17.6.1999, HN đã vinh dự được UNESCO trao tặng danh hiệu "Thành phố vì hoà bình". Tháng 10.2000, HN được Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng danh hiệu "Thủ đô anh hùng".

2. (địa chất), mỏ nước ngầm nằm trong phạm vi thành phố HN. Nước chủ yếu phân bố trong các tầng cuội, sỏi, cát Đệ tứ. Nước ngầm vùng HN có chất lượng khá tốt, bảo đảm sử dụng được trong công nghiệp và sinh hoạt, thể hiện qua thành phần hoá học: pH = 6 - 8, thuộc loại trung tính, tổng khoáng hoá M < 0,5="" g/l;="" nước="" thuộc="" kiểu="" canxi="" bicacbonat,="" natri="" bicacbonat,="" magie="" bicacbonat,="" hàm="" lượng="" các="" nguyên="" tố="" độc="" hại="" nhỏ.="" mỏ="" đã="" được="" tính="" trữ="" lượng="" các="" cấp="" a,="" b,="">2, với trữ lượng hàng triệu m3/ngày. Mỏ nước ngầm HN có thể cung cấp thoả mãn nhu cầu về nước cho công nghiệp và sinh hoạt thủ đô. Nước được khai thác bằng giếng khoan chùm.


Hà Nội        Nhà hát lớn