1. Quốc gia cổ của người Nữ Chân (Nüzhen) ở lưu vực sông Hoàng Hà (Huanghe), Trung Quốc. Thành lập khoảng đầu thế kỉ 12, tên nước lúc đầu đặt là Kim (Jin). Vẫn ở trong tình trạng cát cứ, tan rã của xã hội thị tộc. Năm 1616, Ra Xi thống nhất 3 bộ lạc [Kiến Châu (Jianzhou), Hải Châu (Haizhou), Dã Châu (Yezhou)] thành nước Hậu Kim (Houjin). Ông tự xưng là Khan - tức vua. Năm 1627, đổi gọi tên tộc Kiến Châu thành Mãn Châu (Manzhou). Năm 1636, đặt thay tên nước là T.
2. Vương triều phong kiến Trung Quốc (1644 - 1911). Do tộc người Mãn Châu thiết lập. Kinh đô đóng ở Bắc Kinh (Beijing). Gồm 10 đời vua. Mở đầu là Thanh Thế Tổ Phúc Lâm (Qing Shizu Fulin, 1638 - 61) và kết thúc là hoàng đế Phổ Nghi (Pu Yi, 1906 - 67). Các vua đầu triều T đã thi hành một chính sách vừa chinh phục, đàn áp các thế lực chống đối (cạo tóc theo kiểu người Mãn, xử lí các vụ "Văn tự ngục" mang tư tưởng chống Mãn...) vừa dung dưỡng quyền lợi các tầng lớp quý tộc Hán ("Mãn Hán là một"); bỏ chế độ quan hoạn, thuế đinh (chỉ thu thuế ruộng đất). Duy trì chủ trương thống nhất quốc gia, mở rộng bành trướng xâm lược bên ngoài, hình thành nên một đế quốc T rộng lớn bao gồm Mông Cổ, Tây Tạng (Xizang), Tân Cương (Xinjiang)... nhưng thất bại trong chiến lược mở rộng lãnh thổ xuống phía nam ở Miến Điện (1769), Đại Việt (1789). Cũng là thời kì xuất hiện nhiều bộ sách lớn: "Cổ kim đồ thư tập thành" thời Khang Hi (Kangxi; 1662 - 1722) gồm khoảng 1 vạn chương; "Tứ khố toàn thư" thời Càn Long (Qianlong; 1736 - 95). Vào khoảng những năm 30 thế kỉ 19, triều T rơi vào khủng hoảng. Trong nước, các phong trào nông dân (Thái Bình Thiên Quốc, Nghĩa Hoà Đoàn) nổi dậy. Các thế lực đế quốc (Bồ Đào Nha, Anh, Mĩ, Nhật) bắt đầu nhòm ngó và sau đó đã buộc triều đình Mãn Thanh phải kí hàng loạt các hiệp ước bất bình đẳng. Đầu thế kỉ 20, các phong trào Duy tân đòi cải biến xã hội, lật đổ triều T xuất hiện. Đến 1911, sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tân Hợi, triều T kết thúc.