Các quyền của Tác giả

28/08/2013

     Các quyền của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả luôn là nội đung quan trọng nhất của luật quyền tác giả. Với tư cách là người trực tiếp sáng tạo tác phẩm hoặc cung cấp điều kiện vật chất cho việc hình thành nên tác phẩm, tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả được pháp luật thừa nhận và bảo hộ các quyền nhân thân và quyền tài sản. Các quyền này phát sinh ngay từ thời điểm các ý tưởng sáng tạo được định hình dưới một một hình thức vật chất hữu hình mà không cần tới bất cứ điều kiện nào về đăng ký, phổ biến. Sự phân định về quyền nhân thân và quyền vật chất nhằm đảm bảo cho việc chuyển giao hợp pháp các quyền, vì luật pháp chỉ cho phép chuyển giao các quyền tài sản còn quyền nhân thân thì không thể chuyển giao và luôn gắn với bản thân tác giả (trừ một số quyền theo quy định pháp luật).

     Quyền tài sản

     Tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả được pháp luật thừa nhận và bảo đảm độc quyền sử dụng tác phẩm theo ý muốn và ngăn cản người khác tự ý sử dụng nó. Thông qua việc cho phép khai thác tác phẩm, tác giả và chủ sở hữu được nhận các khoản tài chính nhất định (như tiền thù lao, nhuận bút...). Đương nhiên, các tác giả cũng không thể độc quyền một cách tuyệt đối mà còn phải phù hợp với lợi ích chung của xã hội và đảm bảo nhu cầu hưởng thụ chính đáng của con người. Luật pháp các nước đều thừa nhận tác giả có quyền "cho phép và ngăn cản" các hoạt động cụ thể liên quan đến tác phẩm, thông thường bao gồm: tái sản xuất (sao chép); biểu diễn tác phẩm trước công chúng và phát chương trình, truyền tải tác phẩm đến công chúng; tạo nên các tác phẩm phái sinh từ tác phẩm gốc (dịch, phóng tác tác phẩm). Dưới đây là sự phân tích kỹ hơn về các quyền này.

     Quyền sao chép

     Quyền tác giả ngăn cản người khác sao chép tác phẩm của mình là quyền quan trọng nhất trong luật quyền tác giả. Sao chép một tác phẩm là hoạt động của một chủ thể tạo ra những phiên bản của một tác phẩm gốc nhằm đưa đến công chúng, dù là dạng văn bản in hay công nghệ kỹ thuật số. Mỗi nhà sản xuất khi muốn sản xuất hoặc phân phối bản sao tác phẩm đến công chúng đều phải được sự cho phép của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả (ví dụ một nhà xuất bản muốn in ấn một tác phẩm thì phải xin phép và trả thù lao cho tác giả). Có thể coi quyền quản lý hoạt động sao chép là nền tảng pháp lý của các hình thức khai thác những tác phẩm được bảo hộ theo quyền tác giả. Trên cơ sở đó, một số quốc gia đã quy định thêm một số quyền nữa cho tác giả nhằm đảm bảo cho quyền sao chép được tuân thủ. Ví dụ một số quốc gia còn quy định thêm quyền cho phép phân phối các phiên bản của tác phẩm. Rõ ràng quyền sao chép sẽ không có giá trị kinh tế nếu chủ nhân của quyền tác giả không cho phép phân phối các phiên bản của tác phẩm. Quyền phân phối thường được hiểu là sẽ chấm dứt ngay sau bán sản phẩm lần đầu tiên hoặc lần đổi chủ của các phiên bản copy. Điều này có nghĩa là khi tác giả có bản quyền đã bán hoặc chuyển giao quyền sở hữu cho người khác, thì chủ nhân của phiên bản copy đó sẽ có quyền phân phát mà không cần sự chấp thuận của chủ nhân ban đầu, tức là họ có thể bán lại bản copy đó. Một số quyền khác ngày cũng được thừa nhận rộng rãi, kể cả trong Hiệp định Trips là quyền cho thuê các phiên bản của một số phần nhất định tác phẩm của mình, như là tác phẩm âm nhạc trong một bản ghi âm, phần minh hoạ âm thanh, hình ảnh và chương trình máy tính. Quyền này nhằm kiểm soát hành vi sao chép tác phẩm trong thời kỳ khoa học kỹ thuật phát triển mà bất cứ cá nhân nào cũng có thể dễ dàng tạo cho mình các bản sao. Cuối cùng, một số quốc gia còn quy định thêm quyền kiểm soát sự nhập khẩu của các phiên bản, nhằm đảm bảo yếu tố lãnh thổ trong quyền tác giả. Đương nhiên có một số ngoại lệ của hoạt động sao chép có liên quan đến yếu tố mục đích cá nhân và phi thương mại mà không cần xin phép tác giả.

     Quyền biểu diễn trước công chúng, phát chương trình và truyền thông tin đến công chúng

     Khái niệm biểu diễn trước công chúng là việc biểu diễn tác phẩm tại bất kỳ địa điểm nào mà công chúng đang có mặt hoặc có khả năng tiếp cận. Buổi biểu diễn trước công chúng cũng có thể bao gồm phương tiện thu âm và khi bản ghi âm được bật trước công chúng qua hệ thống thiết bị âm thanh tại các địa điểm đông người (như sàn nhảy, trung tâm thương mai, sân bay...). Tại các cuộc biểu diễn, tác giả hoặc chủ sở hữu có quyền cho phép tổ chức biểu diễn tác phẩm đó (ví dụ biểu diễn một vở kịch tại nhà hát...). Quyền "phát chương trình" là sự truyền phát qua phương tiện không dây những buổi biểu diễn (radio, vệ tinh...). Quyền "truyền tải đến công chúng" một tác phẩm tức là một tín hiệu sẽ được phát ra bằng phương tiện có dây hoặc không dây mà chỉ những người có thiết bị giải mã tín hiệu mới có thể nhận được. Theo Công ước Bern, tác giả là độc quyền trong việc cho phép các buổi biểu diễn đến công chúng, phát chương trình và truyền tải thông tin đến công chúng những tác phẩm của họ. Tuy nhiên có một số quốc gia quy định quyền độc quyền này được thay thế bởi quyền được nhận sự trả công thoả đáng (quy định này không phổ biến). Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số, của viễn thông và vi tính đã dần xoá bỏ ranh giới giữa thể truyền thống của việc đưa tác phẩm đến công chúng thông qua hình thức "phát chương trình, truyền tải thông tin" với các buổi "biểu diễn trước công chúng". Điều này đòi hỏi những cuộc thảo luận, nghiên cứu để có sự thay đổi phù hợp.

 

     Quyền thực hiện các tác phẩm phái sinh (dịch, phóng tác).

     Như đã trình bày ở trên, các dịch giả và người phóng tác cũng thể hiện sự sáng tạo tư duy thông qua việc tạo nên hình thức thể hiện mới khác với bản gốc. Vì vậy, pháp luật quyền tác giả cũng thừa nhận và bảo hộ quyền tác giả cho họ miễn là việc tạo nên tác phẩm phái sinh phải được sự cho phép của tác giả tác phẩm gốc. Với sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số đã tạo cho con người khả năng dễ dàng tác động đến tác phẩm bằng các thao tác chữ, âm thanh và hình ảnh. Vì vậy, việc cân bằng mối quan hệ giữa quyền kiểm soát tính toàn vẹn tác phẩm gốc của tác giả và quyền của người sử dụng được tiến hành những của việc sử dụng bình thường trong môi trường kỹ thuật số đang đòi hỏi luật quyền tác giả có những nghiên cứu, sửa đổi phù hợp hơn.

     Quyền nhân thân

     Để sáng tạo ra một tác phẩm, các tác giả phải suy ngẫm, trăn trở, đầu tư rất nhiều thời gian, công sức. Khi đã công bố và sử dụng, các tác phẩm đem lại cho tác giả sự kính trọng, tôn vinh của xã hội và các lợi ích kinh tế khác. Các tác phẩm không chỉ đơn thuần là một phương tiện đem đến các quyền lợi vật chất, mà còn chính là những đứa con tinh thần mà tác giả đã "thai nghén" nên. Vì vậy, mỗi tác giả luôn mong muốn đảm bảo mối dây liên hệ giữa tác phẩm với tác giả. Các quyền nhân thân này chỉ gắn với tác giả và nó độc lập với quyền tài sản. Chúng vẫn tồn tại ngay cả khi các quyền tài sản đối với tác phẩm đã được chuyển giao cho chủ thể khác. Theo thông lệ quốc tế, các tác giả được bảo hộ các quyền nhân thân (còn được gọi là quyenè nhân thân phi tài sản bao gồm):

- Quyền tuyên bố sở hữu quyền tác giả (còn được gọi là quyền sáng chế).

- Quyền được chống lại mọi sự bóp méo, cắt xén hoặc những thay đổi khác của tác phẩm, hoặc bất kỳ hành động nào liên quan đến tác phẩm mà có ảnh hưởng không tốt đến danh dự và tiếng tăm của tác giả.

     Các quyền nhân thân này luôn tồn tại và gắn liền vĩnh viễn với tác giả. Các nội dung trên được thể hiện cụ thể thành các quyền như: đặt tên cho tác phẩm; đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, phổ biến, sử dụng; bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm, cho phép hoặc không cho phép người khác sửa đổi nội dung tác phẩm.

     Bên cạnh việc quy định các quyền nhân thân theo tinh thần trên, pháp luật Việt Nam còn quy định một số quyền khác cũng thuộc nhóm này, gồm: "Công bố, phổ biến hoặc cho người khác công bố, phổ biến tác phẩm của mình" và "Cho hoặc không cho người khác sử dụng tác phẩm của mình". Đồng thời, quy định cho phép chuyển giao các quyền nhân thân này cho chủ thể khác. Điều này đã mâu thuẫn với tinh thần của Công ước Bern.

     Giới hạn quyền tác giả

     Cũng như các quyền dân sự khác, quyền độc quyền của tác giả chỉ là tương đối trong mối tương quan với lợi ích chung của xã hội. Quyền tác giả cũng gặp phải các giới hạn nhất định. Giới hạn đầu tiên là các sáng tạo của tác giả sẽ không được bảo hộ nếu không nằm trong một số danh mục tác phẩm được quy định. Tại một số nước, tác phẩm sẽ không được bảo vệ nếu nó không cố định trong một dạng vật chất hữu hình. Ví dụ các tác phẩm múa balê sẽ chỉ được bảo hộ nếu được thu lại vào băng hình. Hơn thế nữa, phần lớn các quốc gia đều quy định các điều luật, văn bản của toà án, chính quyền không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật quyền tác giả. Giới hạn thứ hai là các tác phẩm chỉ được bảo hộ quyền trong một thời hạn nhất định, cụ thể là suốt cuộc đời tác giả và 50 - 70 năm sau khi tác giả chết. Giới hạn thứ ba liên quan đến khía cạnh khai thác, sử dụng tác phẩm. Thông thường mọi hành vi khai thác tác phẩm đều phải được sự cho phép của tác giả hoặc chủ sỏ hữu tác phẩm. Tuy nhiên trong một số trường hợp cụ thể theo quy định của pháp luật, có thể khai thác mà không cần sự cho phép của tác giả, bao gồm: việc sử dụng miễn phí (tức là khai thác tác phẩm mà không cần xin phép hoặc bồi thường cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả) và cấp phép không tự nguyện (tức là có thể khai thác tác phẩm nhưng phải bồi thường thỏa đáng cho chủ sở hữu).

     Sử dụng miễn phí tác phẩm không phải xin phép

     Điển hình của việc sử dụng miễn phí tác phẩm là việc "trích dẫn" từ tác phẩm đã được bảo hộ với điều kiện phải ghi rõ nguồn trích dẫn, kể tên tác giả và số lượng trích dẫn hơp lý. Hoặc việc dùng tác phẩm minh họa cho việc giảng dạy hay bản tin. Nhưng các hành vi trên phải đảm bảo phi thương mại hoặc phục vụ mục đích cá nhân. Về vấn đề này, tại Công ước Bern có quy định chung chứ không nêu giới hạn cụ thể. Điều 9 Công ước cho phép các quốc gia có quyền quy định việc sao chép trong một số trường hợp nhất định nhưng không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường của tác phẩm, không được làm phương hại đến quyền lợi chính đáng của tác giả. Nhưng ngày nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, việc sao chép rất dễ dàng với chất lượng tương đương như bản gốc, vì vậy các quốc gia có xu hướng vẫn cho phép một số hoạt động sao chép nhất định nhưng đồng thời tạo nên một cơ chế thanh toán cho cho chủ sở hữu quyền tác giả nếu việc sao chép làm ảnh hưởng đến lợi ích chính đáng. Bên cạnh khái niệm sử dụng miễn phí, luật quyền tác giả của một số quốc gia còn thừa nhận một khái niệm "sử dụng đẹp" (còn gọi là "xử sự đẹp") cho phép sử dụng tác phẩm không cần xin phép chủ sở hữu nhưng phải tính đến các yếu tố sau: bản chất và mục đích của việc sử dụng, số lượng phần sử dụng trong tương quan với toàn bộ tác phẩm, tác động đến khả năng khai thác bình thường của tác phẩm.

     Cấp phép không tự nguyện

     Xuất phát từ quan điểm các tác phẩm văn hoá phải được sử dụng để thoả mãn các nhu cầu tinh thần của con người. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi chung của xã hội, thông lệ quốc tế thừa nhận một số trường hợp khai thác tác phẩm không cần xin phép nhưng phải bồi thường cho việc sử dụng đó. Những sự cho phép này được gọi là không tự nguyện vì nó được pháp luật quy định và không phải là kết quả của thực thi quyền độc quyền của tác giả cho phép khai thác tác phẩm. Việc cấp phép không tự nguyện thường được áp dụng trong các trường hợp xuất hiện những công nghệ mới phổ biến tác phẩm đến công chúng. Trong Công ước Bern về "giấy phép không tự nguyện" được công nhận cho phép việc sao chép mang tính cơ khí những tác phẩm âm nhạc và các chương trình phát. Đặc biệt nó được áp dụng trong các trường hợp đảm bảo những ý tưởng sáng tạo không trở nên vô ích vì quá lạc hậu khi đưa đến công chúng trong trường hợp bản thân tác giả không cho phép chuyển giao hoặc không thể liên lạc được với chủ sở hữu quyền tác giả. Tất nhiên việc cấp phép này cũng phải đảm bảo không được ảnh hưởng đến khả năng khai thác bình thường tác phẩm và phải trả thù lao thoả đáng cho tác giả (phải sau một thời hạn nhất định khi tác phẩm đã được công bố và đưa vào khai thác...). Vấn đề này đang được nghiên cứu kỹ lưỡng hơn khi mà ngày nay càng có nhiều phương pháp mang tác phẩm đến với công theo đúng ý chí của tác giả (như quản lý tập thể quyền sao chép...)

     Thời hạn bảo hộ quyền tác giả

     Quyền tác giả không phải được bảo hộ vô thời hạn, Luật quyền tác giả chỉ bảo hộ quyền tác giả trong một khoảng thời hạn nhất định. Thời gian bảo hộ quyền tác giả được tính bắt đầu từ khi tác phẩm được thể hiện dưới một dạng vật chất hữu hình. Các quyền này vẫn được tiếp tục sau khi tác giả qua đời. Tất nhiên thời hạn trên chỉ áp dụng cho các quyền tài sản, còn các quyền nhân thân thì được bảo hộ vĩnh viễn (quyền đứng tên tác giả...) Điều khoản này nhằm làm cho những người kế tục tác giả được hưởng các đìều kiện vật chất từ việc khai thác tác phẩm sau khi tác giả qua đời. Các nước tham gia Công ước Bern và một số quốc gia khác đều quy định thời hạn này là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả qua đời. Một số quốc gia khác thuộc Liên minh Châu Âu lại có xu hướng nâng thời hạn này lên đến 70 năm. Quyền tác giả cũng quy định việc xác định mốc thời gian trong trường hợp không thể dựa vào cuộc đời một cá nhân hoặc đối với một số loại hình tác phẩm đặc thù (tác phẩm vô danh, tác phẩm điện ảnh...). Ngày nay đang có xu hướng kéo dài thời hạn này thêm (cụ thể là 75 năm). Lý giải cho điều này, có quan điểm cho rằng thời hạn 50 năm được xác định căn cứ trên mốc tuổi thọ của con người trước đây. Nhưng ngày nay, với điều kiện phát triển kinh tế và y học, tuổi thọ con người đã được nâng lên rất nhiều vì vậy, thời hạn này cũng phải thay đổi cho phù hợp.

 

     Quyền liên quan đến quyền tác giả (quyền kế cận)

     Bên cạnh việc bảo hộ cho tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả, luật quyền tác giả còn thừa nhận và bảo vệ quyền của một số chủ thể liên quan. Đó là những người đóng góp vào việc đưa tác phẩm đến với công chúng hoặc tạo nên những sản phẩm thể hiện sự sáng tạo nhưng chưa được gọi "tác phẩm" theo quy định của các quốc gia. Quyền liên quan thường được dành cho 3 đối tượng sau: Người biểu diễn; Nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình và Tổ chức truyền thông (phát thanh truyền hình). Theo quy định chung, việc thực thi các quyền liên quan không được ảnh hưởng đến việc bảo hộ quyền tác giả. Trên bình diện quốc tế, quyền liên quan được bảo hộ tại các Công ước Roma, Geneve, Brussel và gần đây là Hiệp định Trips, WPPT. Trong đó, Công ước Roma 1961 được biết đến với vai trò tiên phong và cho đến tận ngày nay, các quy định của nó vẫn có giá trị là tiêu chuẩn quốc tế.

     Cơ sở của việc bảo hộ quyền cho các đối tượng trên ở chỗ người biểu diễn là người với sự sáng tạo mang tính cá nhân đã đưa tác phẩm đến với công chúng, đem lại sức sống cho các tác phẩm âm nhạc, kịch, vũ balê, điện ảnh. Nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ vì những đóng góp của họ về tài chinh, tổ chức, hình thức thể hiện sáng tạo để mang những bản ghi âm đến được với công chúng. Pháp luật bảo hộ họ chống lại hành vi sử dụng không được phép cho dù dưới dạng sản xuất và phân phối bản sao (băng đĩa lậu) hoặc truyền tải, phát đi bản ghi âm, ghi hình. Tương tự, quyền của các tổ chức phát thanh truyền hình cũng được bảo hộ vì vai trò của họ trong việc đem tác phẩm đến với công chúng và lợi ích chính đáng trong việc quản lý, phát lại chương trình của họ.

     Về quyền của người biểu diễn, luật pháp các quốc gia thường quy định họ có quyền ngăn cản việc thu âm, phát và truyền tải chương trình biểu diễn trực tiếp của họ khi không được sự cho phép của họ, quyền ngăn cản việc sản xuất các bản thu từ chương trình biểu diễn trực tiếp của họ. Quyền liên quan đến việc truyền phát và truyền tin đến công chúng các buổi biểu diễn thường là quyền nhận các khoản thù lao thoả đáng hơn là ngăn cản hoạt động đó. Do có tính sáng tạo cá nhân nên nhiều quốc gia còn cho họ các "quyền đạo đức" để ngăn cản việc sử dụng không được phép tên tuổi, hình ảnh của họ hoặc thay đổi buổi biểu diễn theo hướng không có lợi cho họ. Nhà sản xuất những bản ghi âm được độc quyền về tái bản, nhập khẩu và phân phối những bản sao, quyền nhận những khoản kinh phí cho việc phát bản ghi âm đó đến công chúng. Còn các cơ quan phát thanh truyền hình có quyền cho phép việc phát lại, thu lại, tái sử dụng chương trình của họ. Ngoài ra, tại một số quốc gia (trong EU) thì nhà sản xuất bản ghi âm và người biểu diễn còn được trao thêm quyền cho họ như quyền cho thuê bản ghi âm.

     Cũng như quyền tác giả, các quyền liên quan cũng có những giới hạn nhất định như: sử dụng cá nhân, trích đoạn ngắn để sử dụng cho mục đích nghiên cứu, giảng dạy... Theo Công ước Roma, khoảng thời gian có hiệu lực của quyền liên quan là 20 năm tính từ khi thu băng bản ghi âm, từ khi có buổi trình diễn hoặc việc phát chương trình được thực hiện. Còn theo Hiệp định Trips thì thời hạn là 50 năm kể từ ngày thu hoặc biểu diễn, riêng đối với tổ chức phát thanh truyền hình thì thời hạn là 20 năm kể từ ngày phát.

     Về mối liên hệ giữa quyền liên quan và việc bảo hộ các tác phẩm dân gian, các nước đang phát triển sẽ có thêm phương thức để bảo hộ các tác phẩm văn hoá truyền thống, thể hiện bản sắc dân tộc. Các tác phẩm dân gian thường được bảo hộ theo quyền liên quan với tư cách là các buổi biểu diễn của các nghệ sỹ, nghệ nhân văn hoá. Bên cạnh đó, việc bảo hộ cho người sản xuất bản ghi âm và cơ quan truyền tin sẽ tăng cường phổ biến các giá trị văn hoá mỗi quốc gia trong phạm vi lãnh thổ và trên quốc tế.

PGS-TS Đinh Ngọc Vượng